hoasunghyvong.blogspot.com

Thứ Bảy, 5 tháng 5, 2012

Bệnh viêm cột sống dính khớp

Sưu tầm:
1. Định nghĩa. 
Viêm cột sống dính khớp là một bệnh viêm khớp diễn biến mạn tính, cuối cùng dẫn đến dính, biến dạng ở cột sống và các khớp.

Bệnh có nhiều tên gọi: Viêm cột sống gốc chi, Viêm cùng chậu cột sống gốc chi, Viêm cột sống dạng thấp, Viêm cột sống cốt hóa, Bệnh Bechterew-Marie-Strumpell. Ngày nay người ta hay dùng thuật ngữ Viêm cột sống dính khớp là tên của bệnh.

2. Dịch tễ học: 
Bệnh hay gặp ở nam giới (chiếm tới 90-95%), tuổi mắc bệnh thường trẻ, tuổi dưới 30 chiếm 80%. Bệnh có tính gia đình khoảng 3-10%. ở nước ta, bệnh rất hay gặp, đứng hàng thứ 2 trong các bệnh khớp, chỉ sau bệnh viêm khớp dạng thấp (chiếm 20% tổng số bệnh nhân khớp và chiếm 1,5% dân số ở tuổi trưởng thành).

3. Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh.

Trước đây người ta coi bệnh viêm cột sống dính khớp là một thể đặc biệt của viêm khớp dạng thấp, hiện nay viêm cột sống dính khớp là một bệnh riêng biệt, về mặt cơ chế bệnh sinh và nguyên nhân có thể liên quan đến một số yếu tố sau:

- Về tác nhân gây bệnh có thể do một trong số các loại: Yersinia, Chlamydia, Klebsiela, lậu, Salmonella, Shigella... Những tác nhân này chỉ đóng vai trò là yếu tố kích thích ban đầu.

- Yếu tố cơ địa: giới tính và nhât là yếu tố kháng nguyên HLA B27 mà theo giả thiết gần đây người ta coi là yếu tố tiền đề của bệnh, qua cách giải thích sau:

+ HLA B27 đóng vai trò như một receptor đối với tác nhân gây bệnh.

+ Bản thân tác nhân gây bệnh có cấu trúc kháng nguyên gần giống HLA B27.

+ HLA B27 nằm ngay cạnh một gen đáp ứng miễn dịch mà nó chỉ đóng vai trò đại diện, chính gen này đáp ứng với tác nhân gây bệnh và sinh ra bệnh viêm cột sống dính khớp.

- Các yếu tố khác: Yếu tố chấn thương, điều kiện vệ sinh kém, các bệnh nhiễm khuẩn... có thể đóng vai trò nhất định đến sự xuất hiện của bệnh (Hình 6.18).

 
 4. Giải phẫu bệnh.

- Màng hoạt dịch và sụn khớp: Lúc đầu màng hoạt dịch có biểu hiện tăng sinh và thâm nhập các tế bào limpho và tương bào, sụn khớp bị khuyết loét, các mạch máu ở vùng này đều có biểu hiện viêm nội mạc. Sau một thời gian bao khớp, màng hoạt dịch và sụn khớp xơ teo có hiện tượng vôi hóa, cốt hóa dẫn đến dính khớp.

- Vùng cột sống: Phần tổ chức liên kết giữa các dây chằng trước cột sống và thân đốt sống bị viêm nhưng rất nhanh chóng khoang này bị vôi hóa và cốt hóa tạo nên hình ảnh cầu xương, phần dây chằng ở bên ngoài dầy lên và xơ phát triển mạnh, dần dần biểu hiện vôi hóa dưới dây chằng và xơ hóa dây chằng lan rộng toàn bộ cột sống dẫn đến dính cột sống toàn bộ (như hình ảnh thân cây tre).

Thứ Sáu, 4 tháng 5, 2012

Trị chứng đau lưng sau “động phòng”

Sưu tầm:
Không hiếm người, kể cả những đấng mày râu còn trẻ tuổi, sau khi sinh hoạt tình dục bị lâm vào tình trạng đau lưng rất khó tả mà y học cổ truyền gọi là chứng “phòng sự yêu thống”.
 
Theo y học hiện đại, nguyên nhân có thể là do tư thế sinh hoạt không hợp lý, thời gian và cường độ sinh hoạt quá mức khiến cho các gân cơ vùng thắt lưng bị co cứng bất thường, thậm chí các dây chằng cột sống có thể bị căng giãn đột ngột từ đó phát sinh chứng đau lưng.

Thứ Tư, 2 tháng 5, 2012

Bệnh đau lưng (đau cột sống)


  Sưu tầm:
I/ Các nguyên nhân
Cột sống gồm trên ba mươi đốt sống ( vertebrae) chồng lên nhau. Cột sống chạy từ đáy hộp sọ xuống tới cuối lưng, bao bọc và bảo vệ dây cột sống (spinal cord). Dây cột sống gổm những tế bào thần kinh và những bó sợi thần kinh kết nối tất cả các bộ phận của cơ thể với não bộ. Từ dây cột sống phát xuất những cặp dây thẩn kinh nhỏ chạy xuyên qua các lỗ trống của các đốt sống.
Các đốt sống được các cơ, gân và dây chằng neo lại với nhau. Giữa các đốt sống có những đĩa liên hợp (intervertebral disks) làm đệm tránh cho các đốt sống va chạm vào nhau khi người ta đi bộ hay chạy nhảy. Các đĩa liên hợp (đĩa đệm) này còn giúp cột sống có thể vặn vẹo, khum xuống hay duỗi ra

Cột sống (vertebral column) gổm những đốt sống (vertebra) và đĩa đệm( liên hợp) (intervertebral disks) bao bọc dây cột sống. Các cơ (muscles) cùng với gân, dây chằng neo các đốt sống lại với nhau Các dây thần kinh (nerves) từ dây cột sống chạy xuyên qua các lỗ trống của các đốt sống tới khắp cơ thể.. Sacrum là xương cùng của cột sống

Phần dưới lưng gánh chịu hầu hết trọng lương cơ thể nên là vùng bị đau nhiều nhất, Dưới đây là một số những chứng đau thông thường

1- Căng cơ, bong gân và co thắt ( strains, sprains and spasms)

Nguyên nhân thông thường nhất của chứng đau lưng là tổn thương của cơ lưng ( chúng căng cơ) hay dây chằng (chứng bong gân). Cả hai chứng bệnh này có thể xẩy ra vì nhiểu lý do như nhấc vật nặng lên không đúng cách, tập tạ quá sức và tư thế vận động sai lệch. Chẳng hạn như khi bạn xoay mình ở vùng eo, phần dưới lưng là điểm quay nên dể bị căng cơ nhất (xem hình vẽ)
Đôi khi bị căng cơ hay bong gân người ta cảm thấy đau ngay, nhưng có những trường hợp khác thì chỉ thấy đau và lưng cứng đơ về sau.Một cơ bị tổn thương có thể “thắt lại” gây ra chứng co thắt nhằm giữ cho vùng bị tổn thương bất động giúp tránh bệnh trở thành nặng hơn

Chảy nến xương

Sưu tầm:
DẤU HIỆU HÌNH ẢNH: DẤU NẾN CHẢY 
Dấu hiệu nến chảy gặp trong Xquang xương quy ước. Hình ảnh phì đại vỏ xương không đều, thường xảy ra ở một phía của xương bị tổn thương, giống như hình ảnh nến chảy một bên của đèn cầy.
                                                                               Hình 1
hình Xquang ngực thẳng PA trước mổ ở một bệnh nhân phẫu thuật dị dạng động tĩnh mạch mặt. Ghi nhận hình ảnh phì đại xương dạng nến chảy dọc theo phần dưới của cung sau các xương sườn 8,9.
GIẢI THÍCH